Tên di sản : Chùa Nổ

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 4085/QĐ-UBND

Giới thiệu

Ngày nay không còn một tài liệu nào ghi chép cụ thể về thời gian xây dựng chùa. Theo các cụ già trong làng kể lại chùa Nổ có từ lâu đời, nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng (địa điểm hiện nay) mặt quay hướng Nam, đây là ngôi chùa làng quy mô cấu trúc không lớn lắm.

Kiến trúc chùa trước đây được xây dựng gồm nhà Tiền đường 5 gian và 3 gian nhà Hậu cung, cấu trúc hình chữ Đinh (J); phía đông có một Nhà mẫu 3 gian, Nhà thờ tổ là nhà để các cụ trong làng trông coi chùa ở. Phía trước là Cổng Tam quan. Qua cổng Tam quan khoảng 6 - 7m là giếng đất, xung quanh giếng được lát đá phiến. Đến năm 1964 thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, máy bay Mỹ ném bom núi Vân Trinh, phần nào chùa bị sụp đổ, địa phương lấy nguyên vật liệu để làm trạm xá tại nền móng chùa, nhà kho và trạm điện. Năm 2005 chính quyền xã Quảng Ngọc dịch chuyển nhà trạm xá đến nơi khác nhường chỗ lại cho ngôi chùa Nổ. Trong thời gian địa phương san lấp nền làm trạm xá còn tìm thấy một số hiện vật như chân tảng đá hình cánh sen, khánh đá, bát hương đá, đá lan giai...mang đậm phong cách nghệ thuật thế kỷ XIII. Để đáp ứng đời sống tâm linh và tinh thần của nhân dân trong việc thờ cúng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Quảng Ngọc, Hội người cao tuổi, nhân dân, các nhà hảo tâm đã đóng góp công đức trùng tu lại ngôi chùa trên nền móng cũ theo thiết kế được Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Xương phê duyệt, theo Công văn số 51/DTTH ngày 10/4/2008 của Ban Quản lý Di tích Danh thắng Thanh Hoá thẩm định đồng ý chủ trương phục hồi chùa Nổ.

Hiện nay chùa được địa phương tôn tạo lại với không gian kiến trúc được bố trí như sau:

Cổng chùa: được xây 2 tầng mái, gồm một cổng chính và hai cổng phụ, có chiều cao 13,5m, cổng chính rộng 3,2m, 4 cánh cửa gỗ đóng mở thuận lợi. Hai cửa phụ mỗi cửa rộng 1,35m, mỗi cửa có 2 cánh cửa gỗ.

Sân chùa: láng xi măng, có chiều dài 22m, rộng 18m, trong sân cỏ cây gạo sống nhiều năm tuổi có cành lá xum xuê toả tán khắp sân chùa.

Nhà tiền đường: Qua bậc tam cấp bằng ��á xanh, rộng 0,32m, cao 0,16m, hiên rộng 0,74m, nền hiên lát đá xanh, hai dây đầu hồi được xây cuốn cót, trang trí hoa văn, bánh xe luân hồi là vào nhà Tiền đường.

Từ hiện vào nhà tiền đường qua hệ thống cửa được làm bằng gỗ. Cửa đóng theo kiểu thượng song hạ bản. Gồm 5 chuông cửa, mỗi chuông cửa có 4 cánh, có bậc cửa, ngưỡng cửa được làm bằng gỗ, ngưỡng, ngạch có chiều cao 0,22m, dày 0,15m, cửa đóng mở bằng hệ thống chốt trên và dưới, cửa có chiều cao 1,8m, mỗi cánh có chiều rộng 0,62m, dày 0,15m, làm bằng gỗ lim. Phía trên các chuông cửa được đặt các mắt cửa, tấm ván gió trang trí bức xiên hoa qua các hệ thống con tiện bằng gỗ.

Nhà tiền đường có chiều dài 19,75m, chiều rộng 7,4m, nên lát gạch bát đỏ 30 x 30cm.

Cấu trúc ngang thân nhà gồm: chái đầu hồi phía đông rộng 2,1m, gian thứ nhất rộng 2,95m, gian thứ hai rộng 3,1m, gian thứ ba rộng 3,15m, gian thứ tư rộng 3,4m, gian thứ năm rộng 2,95m, chái đầu đốc tây rộng 2,1m.

Cấu trúc ngang thân nhà gồm 4 hàng cột. Hai hàng cột cái trước, sau và hai hàng cột quân trước, sau và 8 cột góc. Từ cột quân trước đến cột cái trước là 2,05m, từ cột cái trước đến cột cái sau là 3,35m, từ cột cái sau đến cột quân sau là 2,05m. Chiều cao cột cái là 4,05m, chiều cao cột quân là 3,22m, đường kính cột cái là 0,39m, đường kính cột quân là 0,33m, kích thước chân tảng cột cái là 0,48 x 0,48m, kích thước chân tảng cột quân là 0,45 x 145m.

Như vậy ngôi nhà tiền đường có tổng số 28 cột, trong đó có 12 cột cái bằng gỗ, 8 cột quân trước sau bằng đá, 8 cột góc bằng đá không có hàng cột hiên, đứng trên hệ thống chân tảng.

Kết cấu vì kèo: Theo khảo sát thực tế ngôi nhà này gồm 5 gian 2 dĩ (tức mái diêm) tạo 4 góc, 6 vì kèo gỗ, có kết cấu cân đối, đối xứng nhau, gồm gian đầu đối xứng với gian cuối. Các gian đối xứng nhau qua gian giữa, các vì kèo liên kết với nhau theo kiểu giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 4, tất cả các vì kèo đều giống nhau theo một kiểu cấu trúc như vừa nêu ở trên.

Nhìn thẳng vào một vì kèo từ ngoài vào mái hiên đến cột quân là hệ thống đỡ hoành tải hiên và tàu mái của kết cấu mái chạy hết chiều dài mái ngói tàu mái ở đây làm bằng diềm đỡ.

Phần nối giữa cột quân với cột cái trong lòng nhà đến nóc thượng lương đều kết cấu kiểu con so chồng trường, đầu con rường thứ nhất ăn mộng vào đầu cột cái, đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng để nối hai trụ đứng với nhau là con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đầu trụ đứng đỡ cả mái còn gọi là rường bụng lợn. Trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỷ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, nó được đỡ bằng những đấu trụ vuông vắn, con rường cuối cùng là một đấu guốc đỡ thượng lương.

Phần dưới xà lòng, xà nách được liên kết kiểu chồng rường. Riêng vì 1 và vì 6 từ cột quân ra cột góc có 4 góc kết cấu liên hoàn chặt chẽ, tạo nên mái cong. Tất cả các vì ở 2 hàng cột cái trước và sau đều đặt các đầu dư ở mỗi vì, đầu dư này đặt dưới Quá giang chui qua họng cột cái, phía trên và thường có tác dụng đỡ Quá giang và trang trí hình đầu rồng.

Toàn bộ hoành tải rui mè, xà thượng, xà hạ, xà thế hoành đều làm bằng gỗ thứ thiết vuông vắn, chắc khoẻ có khả năng chịu lực tốt, nền lát gạch bát đỏ 30 x 30cm, mái lợp ngói liệt ở dưới, trên là ngói mũi hài; ở giữa đỉnh mái có đắp hình hồ lô, hai đầu độc gắn hình 2 con kìm dài gấp 3 lần chiều.

Nhà hậu cung (Phật điện): Nhà hậu cung nối liền với gian giữa của nhà tiền đường và kết cấu theo chiều dọc gồm 3 gian 4 vì gỗ. Trốn 2 cột cái ở vì 1 cho nên chỉ còn lại 6 cột cái bằng gỗ và 8 cột quân bằng đá. Các cột đá này được nối từ xà hạ xuống đến chân tảng.

Cột cái có chiều cao 4,05m, cột quân có chiều cao là 3,22m.

Kích thước theo chiều dọc thân nhà gian thứ nhất rộng 3,15m, gian thứ thứ hai rộng 3,3m, gian thứ ba rộng 3,15m

Kích thước ngang thân nhà từ tường hối hậu phía tây đến cột quân là 0,20m, từ cột quân đến cột cái trước là 2,05m, từ cột cái trước đến cột cái sau là 3,4m, từ cột cái sau đến cột quân sau là 2,05m, từ cột quân sau đến tường hậu phía đông là 0,20m.

Kết cấu vì kèo: Cấu trúc mặt bằng theo chiều dọc từ nam đến bắc và ngược lại. Theo thực tế nhà hậu cung có 3 gian, 4 vì kèo gỗ có kết cấu kiến trúc tương đối cân đối, đối xứng nhau qua gian giữa, vì 1 đối xứng với vì 4, vì 2 đối xứng với vì 3, tất cả các vì kèo ở đây có kết cấu giống như các vì kèo của nhà tiền đường;

Hai bên hông nhà hậu cung nơi tiếp giáp với nhà tiền đường và hậu cung mở 2 cửa; cửa rộng 1,5m, cao 2,3m. Có cánh cửa đóng mở dễ dàng, cửa làm bằng gỗ, làm kiểu thượng song hạ bản.

Bài trí đồ thờ:

Nhà tiền đườngBan thờ thứ nhất đầu đốc phía Đông đặt bộ tượng Đức Ông; ban thờ thứ năm đầu đốc phía Tây đặt bộ tượng Đức Át Nani (Thánh Hiền); ban thờ thứ hai và gian thứ tư đặt 2 pho Hộ Pháp: cao 2,6m; gian đầu hồi Đông đặt bê tượng Địa Tạng Bồ Tát; gian đầu hồi Tây đặt bộ tượng Thánh Mẫu

Nhà Hậu cung (Phật điện)

Nhà Hậu cung hệ thống tượng Phật được bố trí thành 4 lớp, một bàn thờ chính giữa và hai bệ thờ chạy dọc hai bên hông tường. Bệ xây bằng xi măng và đặt bàn thờ gỗ đỡ lớp tượng đứng, ngồi. Hai bệ thờ bên hông được xây bằng đá xanh cao 1,1m, dài 2,8m, rộng 0,85m.

Bàn thờ ở gian giữa: được cấu tạo thành 4 bậc có chiều dài 2,56m, chiều rộng 1,09m, từ mặt đất lên đến bệ thờ bộ tượng Tam Thế cao nhất là 2,2m, bệ thứ hai cao 1,8m, bệ thứ ba cao 1,4m, bệ thứ tư cao 1,0m

Bài trí tượng pháp được bố trí như sau: (tất cả đều là tượng mới làm bằng gỗ).

Bệ trên cùng là bộ tượng Tam Thế: Quá khứ, hiện tại, vị lai, có kích thước bằng nhau. Tượng cao 1,05m, đế tượng cao 0,26m. Các bệ thờ này được đặt bát hương, cây đèn, nến bằng gỗ và một số đồ thờ khác.

Lớp tượng thứ hai gồm: Quán Thế Âm, Di Đà, Đại Thế Chí; bộ tượng Quán Thế Âm, Tượng Đại Thế Chí ở tư thế đứng cao 1,80m, tượng Di Đà ở tư thế ngồi, tượng cao 1,75m.

Lớp tượng thứ ba: Bộ tượng gồm tượng Phổ Hiền, Thích Ca, cao 1,80m, tượng Thích Ca tạc ở tư thế ngồi. Tượng cao 1,75m.

Lớp thứ tư: Tượng toà Cửu Long - Giá trị nghệ thuật của các pho tượng:

Ba pho tượng Tam Thế. Đây là pho tượng tượng trưng cho phật ở ba thời: Quá khứ, Hiện tại, Tương lai (hay còn gọi là Vị lai). Cả 3 pho tượng Tam Thế được làm mới bằng gỗ, hình dáng giống nhau.

Phật Quá khứ như Đức phật Ca Diếp, phật Hiện tại như Đức phật Thích Ca Mâu Ni, phật Vị lai như Đức phật Di Lặc. Cả 3 pho tượng này được đặt trên bệ gỗ và đài sen, tóc kết hình xoắn ốc, mũi thẳng, gò má hơi cao, thuỳ tai to rủ dài, vành tai tròn, lòng bàn tay cong như búp măng non, các ngón tay thon thả. Tượng khoác áo cà sa để lộ ngực trần, áo không trang trí, chỉ có một số nếp gấp. Toà sen với những cánh sen căng phồng thành cánh sen nhỏ bên trong.

Ba pho tượng đều giống nhau ở tư thế tay, kết ấn tam muội, lòng bàn tay để ngửa lên lòng đùi. Bộ sen tạo theo hình tròn, chia làm hai lớp, các cánh sen được kết sốt với nhau. Cả ba pho tượng Tam Thế trong chùa được tạc với kích thước cân đối, vừa phải, hợp với không gian ngôi chùa. Bộ mặt của tượng bao dung nhưng vẫn lộ rõ vẻ nghiêm nghị, mắt tượng tạc với đường nét thanh thoát, nhìn kỹ lộ rõ sự sang quý, nhưng rất xa cách, dễ gần nhưng lại dễ xa, hợp với truyền thống thẩm mĩ của người dân trên nguyên tắc tạc tượng.

Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Di Đà

Hai pho tượng được tạc bằng gỗ tượng bằng người thực, đứng trên đài sen, hai tay kết ấn liên hoa, tượng có khuôn mặt trái xoan, mắt khép hở, mũi dọc dừa, miệng hẹp ẩn nụ cười tế nhị, tai dài đeo hoa chấm vai, đầu đội mũ thiên quan đứng thành như cánh sen cách điệu bè ra che đỉnh đầu có 5 cánh sen xoè ra thành mũ trang trí ở phía trước và hai bên là hình hào quang đức Phật. Tóc mai vắt qua tại dải chảy xuôi theo cánh tay chuyển khuỷu. áo ngoài của tượng dài trùm chân, ngực áo mở ra để hở yếm trơn, các nếp áo chay song mượt cùng với hai tay chắp trước ngực càng làm cho tượng tăng phần chững chạc, trang trọng. Với vẻ đẹp quý phái và lối chạm khắc tinh tế.

Tượng Phổ Hiền, Thích Ca, Bồ Tát Văn Thù

Cặp tượng bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền là hai hiệp sĩ của Phật Thích ca Như Lai, Ngài Văn Thù tượng trưng cho trí tuệ - chứng, ngài Phổ Hiền tượng trưng cho lý - định - hành. Cặp tượng này biểu trưng cho lý trí - định tuệ - hành. Bộ tượng này giúp đỡ, tuyên dương cho việc giáo hoá của đức Như Lai.

Hai vị Phổ Hiền và Bồ Tát Văn Thù ở tư thế đăng đối nhau, tĩnh lặng, nhìn thẳng thân hình chắc đậm, mặt trái xoan đầy đặn, cùng búi tóc nhô ở đỉnh đầu rồi chụp lên một vành mũ có nhiều trang trí , mặc áo dài thắt vạt để hở ngực trơn và đoạn cạp váy. Tay đưa lên kết cùng một ấn gấp ngón giữa và ngón đeo nhẫn chạm ngón cái, hai ngón út và ngón trỏ duỗi hơi cong: tay kia để trên đùi nhưng tay tượng Văn Thù để ngửa quay vào trong lòng, còn tay của Phổ Hiền để úp duỗi thẳng xuống. Vành mũ chạm nổi hào quang ở phía trước, trong đó mũ tượng Văn Thù còn nhô cao một tấm chắn có trang trí để che búi tóc và để mai. áo tượng chỉ có những nếp chảy sóng, mảng to đầy, toàn tượng sơn thp màu gụ có những ánh vàng huyền bí, đậm chắc, sâu kín.

Tượng Thế Tôn

Ngài là bậc độc tôn ở đời gọi là Phật Niêm Hoa hay Niêm Hoa vi tiếu nghĩa là giơ tay mỉm cười bắt nguồn từ cách thuyết pháp của Phật.

Tượng đẹp, tượng ngồi theo kiểu bán kiết để lòng bàn chân phải đè lên trên đùi trái, hai tay kết ấn tam muội ở trong lòng, tượng có khuôn mặt thanh tú hợp với thân mình thon thả biểu hiện vẻ đẹp quý phái. Đầu tóc nở to so với khuôn mặt, phần nhục kháo to tròn với bạch ngọc hào nổi lên phía trước, tai dài vừa phải chỉ ngang với miệng - Khuôn mặt rất thực mà cũng rất thánh thiện, tập trung những nét đẹp thuần khiết với nụ cười tế nhị mà rạng rỡ  áo trong của tượng để hở cả ngực.

Toà Cửu Long

Biểu tượng Thích Ca sơ sinh hầu hết có vòm Cửu Long làm thành một cái động. Nhiều tượng đầu dài ra, mình thon thả mang nét người lớn, và tượng mặc áo thay váy tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất. Trên khung động Cửu Long này được gắn nhiều tượng nhỏ xếp đăng đối hai bên, thứ tự từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài giống như một Phật điện thu nhỏ tượng bé nhưng tạc rất chi tiết, nhìn toàn cục chứng tỏ thợ chạm rất khéo tay.

Hai bên hông nhà có đặt hai lớp tượng Thập Điện Diêm Vương.

Hiện vật trong di tích.

Chân tảng đá cổ: 11 cái

Đá Lan giai; 6 phiến (dài 1,50m, rộng 0,35m)

Cột đá cổ; 2 cái (dài 0,36; rộng 0,27m)

Khánh đá cổ: 1 cái

Bát hương đá cổ: 2 cái

Tượng gỗ mới: 35 pho

Mõ gỗ mới: 1 cái

Loại di tích:

Chùa Nổ thuộc loại Di tích lịch sử.

Chùa Nổ

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật